Già rồi, lạ giường ngủ không quen giấc như thường lệ lại lọ mọ dậy sớm đi quanh xem có gì đặc biệt. Vừa tối qua đông người là thế mà sáng sớm phố đi bộ trở nên vắng vẻ lạ thường.

Cũng chưa có cửa hàng nào dọn hàng ra cả.


Cầu Ka Long nhìn từ phía bên này, chữ tàu.


Tìm ngang tìm dọc thấy cũng có nhiều điểm gần gần chưa đi nên tranh thủ trước khi đoàn khởi hành đi tuần biên. Đền Xã Tắc là điểm nghe tên cũng hay hay. Đền Xã Tắc là một trong những di tích lịch sử vào loại lâu đời nhất ở TP Móng Cái, được UBND tỉnh xếp hạng Di tích lịch sử từ năm 2005. Đền Xã Tắc như một “cột mốc” văn hóa vững bền khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia, khắc ghi dấu ấn lịch sử nơi ông cha ta thời trước trấn yên bờ cõi và khẳng định nét đặc trưng trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của nhân dân Việt Nam tại vùng biên cương của Tổ quốc.
Vừa vào chưa biết đền đâu, cứ xuống xe là 1 đoàn ra đuổi, lạ thật!

Đền Xã Tắc, hiểu theo nghĩa hẹp là đền thần Đất, thần Nông, theo nghĩa rộng, là giang sơn, đất nước. Trước kia đền có tên gọi là “Đàn miếu Xã Tắc Đại vương”. Đền nằm bên ngã ba sông Ka Long, TP Móng Cái. Với vị trí trọng yếu trên mảnh đất biên giới địa đầu Tổ quốc, ý nghĩa của ngôi đền vượt ra khỏi phạm vi thờ thần của một làng, hay một vùng mà trở thành nơi thờ thần của non sông.

Phía bên cạnh đền.

Chính diện.

Rời đền loanh quanh một số con phố chính.

Tổ quốc ghi công.

và dừng lại để ăn sáng trước khi lên đường tuần biên.
Nghe đồn ở Móng Cái có cái món bún đặc biệt - Bún Cù Kỳ ở phố Trần Quốc Toản. Tìm trên bản đồ thấy cũng xa xa nên lên đại lộ Hòa Bình ăn cho nhanh.

Nhìn nồi nước dùng đang sôi sục, khói bốc lên đã thấy thèm và đói. Khách đông nên đợi mãi mới đến lượt.

Cù kỳ dễ dàng được nhận ra bởi mai màu nâu, mắt màu xanh lá cây sáng và hai càng rất to. Nó sống trong khe đá, mảnh gỗ dọc theo các vách đá bờ biển và rừng ngập mặn, cũng như trong vỏ trai, trang trại nuôi trồng thủy sản, nhà bè và đê chắn sóng, nó rất chậm chạp, bám vào đá rất chắc chắn. Cù kỳ tuy thịt không ngon ngọt như thịt cua biển nhưng ngon hơn ghẹ, giá cả lại rẻ hơn cua nên rất được ưa chuộng. Tuy nhiên thịt cù kỳ chỉ có ở hai càng, phần thân xốp và hầu như không có thịt. Vị ngọt của thịt, vị chua của măng và vị cay của ớt, thật tuyệt vời.

Rời thành phố Móng Cái, vẫn đang mê mẩn với con đường đẹp rộng thênh thang, chuyển hướng sang TL 341 - con đường chạy dọc theo biên giới tính từ Móng Cái đến Hoành Mô giữa Việt Nam và Trung Quốc. Biên giới hai nước có những đoạn chỉ cách nhau con suối nhỏ, kể cũng có những điều mới lạ.
Đường to và đẹp thì không đi.

Rẽ vào TL 341, vừa nhỏ, vừa xấu nhưng hai bên đường khá đẹp.

Đường vắng không một bóng người.

Con đường nhỏ cứ uốn lượn theo sườn đồi, không gian im ắng một cách lạ thường.

Mặt đường cũng có nhiều chỗ xuống cấp.

Nhưng tổng thể vẫn đi ngon lành.

Trên con đường vắng vẻ thi thoảng cũng mọc lên những biệt thự, xem kỹ là những điểm xuất hàng khá lớn.

Trụ sở xã cũng được xây dựng khá khang trang ở cái nơi nhà dân thì ít còn đất thì nhiều.

Vì là vùng giáp biên nên xen kẽ là các doanh trại quân đội.

Còn các con đường nhìn đã thấy thích rồi, vắt vẻo, uốn lượn.

Điểm đến đầu tiên trong hành trình ngày thứ hai thuộc Hải Sơn, Móng Cái (Cách Móng Cái khoảng 30km): Pò Hèn!
Chợ Pò Hèn.


Nói đến Pò Hèn, địa danh có lẽ là mới với nhiều người, nhưng thực ra là 1 địa danh rất nổi tiếng trong chiến tranh biên giới. Trùng với lễ quốc khách nên thăm Pò Hèn cũng là thăm lại một địa danh lịch sử. Em xin lược trích bài viết của Thế giới mới, sử dụng ảnh chụp trực tiếp để các bác hiểu thêm về trận đánh ở Pò Hèn.
Cổng vào khu tưởng niệm

Đường vào với hàng tùng xanh mát.

Phút bi tráng ở Pò Hèn, 17.2.1979 (Ngọc Uyên - Thế Giới Mới)
Đồn biên phòng Pò Hèn hay còn gọi là đồn 209 thuộc xã Hải Sơn, thành phố Móng Cái (Quảng Ninh) đã chứng kiến một trận chiến đấu bất khuất. Ở đó, đồn phó Đỗ Sỹ Họa và cô mậu dịch viên Hoàng Thị Hồng Chiêm cùng hầu hết những người lính đã hy sinh trong tư thế hiên ngang, không lùi bước.
Bị thương ngất đi, tỉnh lại tiếp tục chiến đấu
Nếu có một câu nói nào đó thể hiện được toàn bộ tinh thần chiến đấu của quân và dân các tỉnh biên giới những ngày chống quân Trung Quốc có lẽ câu nói của liệt sĩ, anh hùng Đỗ Sỹ Hoạ là câu nói tiêu biểu nhất: “Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết”.
Đứng ở đài tưởng niệm liệt sĩ Pò Hèn, xây trên nền của chính đồn công an vũ trang Pò Hèn năm 1979. Một buổi sáng mùa xuân, đứng bên đài tưởng niệm, câu nói ấy của liệt sĩ Hoạ chợt văng vẳng khiến chúng tôi không khỏi sởn da gà và cay mắt. Nghe đồng đội của anh kể lại thời khắc anh chiến đấu ngoan cường ngay cả khi đã bị thương rất nặng, tất cả chúng tôi đều không cầm được nước mắt.


Ngay đằng sau đài tượng niệm hiện nay là một quả đồi nho nhỏ, trông rất bình thường, không còn dấu tích gì của nơi từng diễn ra trận chiến tranh giành nhau từng tấc đất, nhưng 35 năm năm trước đó là nơi anh Họa đã chỉ huy và trực tiếp chiến đấu một trận bằng máu của mình.
“Tại đồi Quế, anh Họa bố trí đội hình đánh lại quân Trung Quốc khi đó đã chiếm được đồn. Phát hiện ra vị trí hỏa lực của ta, quân Trung Quốc nã pháo dồn dập vào đồi Quế, đồng đội chúng tôi hy sinh rất nhiều. Anh Họa cũng bị thương, mặt và người bê bết máu. Hỏa lực của địch mạnh hơn và cứ sau mỗi loạt pháo chúng lại bắc loa yêu cầu ta ra hàng nhưng anh Họa vẫn chỉ huy bắn trả”- ông Lý nhớ lại.
Chúng buộc phải dùng bộ binh với số lượng áp đảo xông lên để đánh giáp lá cà với quân ta và chiếm được đồi Quế. Đồn phó Đỗ Sỹ Họa cùng nhóm chiến sĩ của mình phải rút lui nhưng họ vẫn không đầu hàng mà lên ụ súng tổ chức lại lực lượng chiến đấu tiêu diệt 227 tên lính Trung Quốc, đến khi chiếm lại được đồi Quế.
Bị thương và mất máu quá nhiều anh Họa đã hy sinh nhưng khi trút hơi thở cuối cùng anh vẫn dặn đồng đội phải giữ vững trận địa. Ông Lý ngẹn lời: “Hình ảnh anh Họa bị thương ngất đi hai, ba lần liền nhưng cứ tỉnh lại là anh lại tiếp tục chiến đấu và chỉ huy rất dũng cảm”. Trong chiến tranh chống Mỹ ở Quảng Trị, anh Họa từng bị thương nhưng khi non sông thu về một mối dù quê ở Ân Thi (Hưng Yên) anh vẫn xung phong lên làm một người lính bảo vệ biên giới.
Nữ dũng sĩ Pò Hèn
Có một bài hát viết về một người con gái cũng có mặt ở đồn Pò Hèn vào ngày 17.2 của 35 năm trước. Người con gái đó không thuộc biên chế của đồn Pò Hèn nhưng chị tình cờ có mặt ở Pò Hèn đúng ngày giặc nổ súng.
Hoàng Thị Hồng Chiêm vốn là cô nhân viên thương nghiệp của cửa hàng bách hóa Pò Hèn. Đêm trước hôm 17.2, chị Chiêm nhận lệnh của trên phải sơ tán cửa hàng vì quân Trung Quốc có thể đánh sang bất cứ lúc nào. Không ngờ ngay trong đêm sơ tán cửa hàng, chị Chiêm cùng anh Vượng, cửa hàng trưởng lại phải đối mặt với đạn pháo liên hồi.
Trong tay cô gái Hoàng Thị Hồng Chiêm khi đó chỉ có một khẩu CKC và hai quả lựu đạn nhưng người con gái quê ở Bình Ngọc dõng dạc khẳng định với anh Vượng, anh Thắng, chủ tịch xã và anh Đinh, y sĩ của xã: “Các anh cứ đi trước để em yểm trợ. Trước ở trung đoàn 8 làm đường Ba Chẽ em được huấn luyện để dùng súng và lựu đạn rồi”.
Và chị Chiêm đã yểm trợ để một số người trốn thoát sau đó một mình chạy về chốt chiến đấu của đồn công an vũ trang 209.

Ông Hoàng Như Lý kể lại: “Lúc ấy, chị Chiêm và anh Bùi Anh Lượng, một người lính của đồn 209 đang yêu nhau. Thời điểm Chiêm có mặt, các chiến sĩ trong đồn cũng đang chiến đấu ác liệt với quân Trung Quốc, anh em ban đầu khuyên chị lui về tuyến sau nhưng chị kiên quyết xin đồn phó Đỗ Sỹ Họa cho chị sát cánh bên bộ đội chiến đấu”.
Được đồn phó Đỗ Sỹ Họa giao nhiệm vụ tiếp đạn và băng bó cho thương binh nhưng cứ mỗi lần lên tiếp đạn là chị lại phụ anh em chiến đấu. Đến khi địch phải dùng đến pháo 130 ly nã điên cuồng vào đồi Quế mới khiến chị Chiêm bị thương.
Khi đồn phó Họa đã hy sinh, chị Chiêm gần như là người thủ lĩnh tinh thần của bộ đội. Chị trực tiếp cầm khẩu K54 của anh Họa bắn về phía quân địch khi máu đã ướt đẫm áo. Chị dính loạt đạn trung liên và ngã xuống khi vừa tròn 25 tuổi. Ở xã Bình Ngọc, thành phố Móng Cái, quê hương người nữ dũng sĩ anh hùng có một bức tượng Hoàng Thị Hồng Chiêm đặt ở sân trường trung học mang tên chị.
Nhạc sĩ Trần Minh một lần đến Pò Hèn nghe về câu chuyện của chị đã viết ca khúc Người con gái trên đỉnh Pò Hèn với những lời ca: “Từ biên giới này tỏa tiếp lời ca thắng lợi/ Hương hồi thơm bay tỏa lan trên vách núi/ Có cánh đào tươi đẹp trời xuân mới trên đỉnh núi Pò Hèn/ Hoàng Thị Hồng Chiêm, Hoàng Thị Hồng Chiêm người con gái ấy/ Đã vào trang sách, đã thành bài ca”.
Người trông nom có kể lại cho đoàn câu truyện, nghe thực sự đau và mới thấy sự thâm độc của phía người láng giềng. Theo lời kể, hôm trước biên phòng phía người láng giềng vẫn sang giao lưu bóng truyền bình thường và vui vẻ. Ấy vậy mà hôm sau đã xảy ra trận chiến như trên! Một số hình ảnh khác của khu tưởng niệm.



Thắp hương xong xuôi, đoàn lại tiếp tục khởi hành hướng về phía cửa khẩu Bắc Phong Sinh.

Trên xe vẫn cứ bàn tán về trận đánh tại Pò Hèn, chắc sẽ là một điểm để nhớ trong chiến dịch chiến tranh biên giới 1979.
Càng đi càng thấy biên giới giữa mình và phía tay láng giềng càng mong manh, ranh giới cách nhau đúng 1 con suối nhỏ, nên đúng là đọc cũng thấy rất nhiều phức tạp ở khu vùng biên này.

Từ Pò Hèn sang Bắc Phong Sinh cũng gần, đi tý đã thấy đến
Đồn Biên phòng Bắc Phong Sinh.


Check in tại Cửa khẩu Bắc Phong Sinh thuộc huyện Hải Hà.

Qua cửa khẩu Bắc Phong Sinh có trạm barie nên cũng phải báo biên phòng xem đi từ đâu đến và về đâu. Qua đoạn này cứ tưởng đường chỉ nhỏ và quanh có, nhưng cũng bắt đầu xuất hiện các đường dốc quanh co liên tục, độ dốc thường xuyên 10%.

Đi trên con đường này lại nhớ đến đường Trường Sơn nhánh tây trong chuyến Xuân tha hương vì cũng xuyên qua khu rừng, tất nhiên độ che phủ của rừng không thể bằng được.


Nghỉ được một lúc, đoàn lại tiếp tục với con đường men theo con suối ngăn cách hai nước.

Thi thoảng cũng chạy qua những điểm nếu trời mưa có vẻ cung đường này cũng khó đi vì sạt lở.

Chạy dọc đường này liên tục là các đập tràn do có rất nhiều suối chảy qua đường, kể ra dừng lại nghỉ ngơi cũng mát mẻ.


Trước thấy nhiều người bảo dọc con đường này rất nhiều cột mốc biên giới, đi mãi mà cũng chưa thấy mấy. Chợt bắt gặp một nhóm xe máy đang đứng hỏi đường nên dừng lại ngó nghiêng xem có gì không, hóa ra đúng đường ra cột mốc thật.


Mò được đến đây cũng thấy mừng lắm rồi, nhưng đợi một lúc hỏi ra mới biết đồng chí trực ở đây đã về nghỉ nên phải đợi gọi mới ra để mở gác chắn cho lên được.

Điểm này thuộc thôn Phạt Chỉ.

Thấy lâu nên lại tiếp tục lên đường vì ngại đến Bình Liêu sẽ muộn và còn khoản ăn trưa trên đường nữa. Đường nhỏ hẹp nên thi thoảng gặp xe ngược chiều đi khó khăn phết, căn từng tý một, không có cam tiến bên phụ chắc nhiều quả căn xe xuống rãnh luôn chứ chả chơi.

Mà cũng chả phải chờ đợi lâu, đi được một quãng lại đến cột mốc ngay gần đường và được cắm liên tục.

Cột mốc 1325 nằm gần đường

Ở đây có 3 cột 1325: I, II, III nằm ở sát nhau.


Quá phấn khích khi chạm tay vào các cột mốc thiêng liêng

Các nhà cũng tranh thủ chụp kỷ niệm với cột mốc thiêng liêng


Người lớn thì người thích ngắm cột mốc, người thì không nhưng lũ trẻ thì có vẻ cũng không thích lắm, rất may gần cột mốc này có đập tràn nên cho nghịch nước một lúc cho thoải mái còn tiếp tục hành trình.
Đỗ xe trên đập tràn.

Đùa vui dưới nước mát.


Giật mình nhìn mốc lộ giới thấy biển Đồng Văn còn 6km.

Hóa ra Đồng Văn là xã thuộc huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Xã Đồng Văn nằm ở thượng nguồn sông Đồng Văn, một nhánh của sông Tiên Yên. Xã này cùng thuộc Khu kinh tế cửa khẩu Hoành Mô - Đồng Văn.
Thi thoảng trên đường lại gặp người Dao với chiếc mũ rất cao trên đầu.


Và những ngôi nhà trình tường, tuy không nhiều nhưng cũng là nét đặc trưng của người miền núi.


Cũng gần trưa mà chưa thấy có điểm nào hợp lý để dừng nghỉ, chả là trước khi ấut phát sớm, hậu cần đã chuẩn bị đồ ăn để ăn trưa tại một điểm trên đường nhưng nắng nóng mà tìm mãi không có điểm hợp lý nên cứ chạy và chạy. Giờ thì cột mốc cũng nhiều, ngay sát đường không cần xin phép hay trèo leo.
Cột mốc 1323

Bản đồ cũng báo gần đến Cửa Khẩu Hoành Mô, nên thôi xác định qua thăm nốt cửa khẩu rồi về Bình Liêu ăn trưa.

Qua Chợ Đồng Văn của Bình Liêu đàng hoàng chứ không phải Đồng Văn Hà Giang.

Đang đi trên đường quanh co, đến đoạn rẽ gần cửa khẩu Hoành Mô thì đường mịn màng hơn da em bé.

Khoảng 11h15, đến cửa khẩu Hoàng Mô. Cửa khẩu Hoành Mô, huyện Bình Liêu, nằm ở vùng Đông Bắc tỉnh Quảng Ninh, tiếp giáp thành phố Phòng Thành (Quảng Tây, Trung Quốc).

Trạm biên phòng cửa khẩu.

Cột mốc 1317 tại cửa khẩu Hoành Mô.

Phía bên kia là tay láng giềng, nhà nào hò nhà đó để ý đến F1 vì qua cái đập là sang bển mất!

Công việc vận chuyển hàng hóa ở cửa khẩu bằng xe thô sơ.


Giờ thì chẳng còn gì ngoài việc quay về TT Bình Liêu ăn trưa. Đi được mấy km chợt có lão báo đàm nói cây đa lục hồn. Nằm ở địa phận xã Lục Hồn, cách thị trấn Bình Liêu 6km về phía bắc, tại đây ngày 20/11/1945 đã thành lập chính quyền cách mạng, đây còn là nơi diễn ra nhiều trận tập kích giết bọn thực dân Pháp. Không rõ có phải một trong những cây này không.

Tên chợ cũng trùng tên, chợ Lục Hồn.

Rẽ qua cầu Pắc Hoóc là trung tâm Huyện Bình Liêu

Bình Liêu có cấu trúc địa hình đa dạng của miền núi cao thuộc cánh cung bình phong Đông Triều - Móng Cái; có một số đỉnh núi cao trên 1.000m so với mực nước biển như đỉnh Cao Ba Lanh (cao 1.113m), đỉnh Cao Xiêm (cao 1.330m).


Hỏi mãi mới biết nhà nghỉ đặt trước trên đường đi thác Khe Vằn, đường rẽ vào Khe Vằn.

Nhà nghỉ này chắc qua quen với nhiều bác.


Chuẩn bị sẵn đồ ăn từ Móng Cái nên đến nơi chỉ bỏ ra chiến đấu thôi, mời các bác.




Ăn uống nhanh chóng, nghỉ trưa một lúc để chuẩn bị chiều đi thác thay vì tiếp tục đường biên.
(Còn nữa)
Trên đây là những chia sẻ của thành viên dmdviet, diễn đàn OTOFUN. BBT OF News xin trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được chia sẻ của các thành viên khác trên diễn đàn.
Để xem chi tiết bài viết, mời độc giả đọc Tại đây.